Hóa biểu trong bản nhạc là gì
Trong âm nhạc, hóa biểu (chord progression) là một chuỗi các hợp âm diễn ra theo một thứ tự cụ thể. Nó đại diện cho sự thay đổi của các hợp âm trong một bản nhạc và tạo ra sự phát triển cảm xúc và mô phỏng cho người nghe.
Hóa biểu xác định các hợp âm cụ thể và thứ tự chuyển đổi giữa chúng. Mỗi hợp âm được ký hiệu bằng một ký hiệu như chữ cái, số hoặc ký tự đặc biệt để biểu thị loại hợp âm. Ví dụ, hợp âm C đại diện cho hợp âm Đô trưởng, hợp âm Am7 đại diện cho hợp âm La thứ 7 và hợp âm F#m đại diện cho hợp âm Fa thứ trưởng.
Hóa biểu quyết định thứ tự chuyển đổi giữa các hợp âm. Ví dụ, một hóa biểu cổ điển phổ biến được gọi là “I-IV-V” trong hóa biểu Nashville sử dụng các hợp âm 1 (I), 4 (IV) và 5 (V) của hệ thống nhạc cụ gốc. Trong hóa biểu này, các hợp âm thường được sắp xếp theo thứ tự: I, IV, V, I. Đây là một hóa biểu cổ điển được sử dụng rộng rãi trong nhạc rock, blues và nhạc đồng quê.
Hóa biểu có thể thay đổi tùy thuộc vào loại nhạc, phong cách và ý thức sáng tác của người sáng tác. Một hóa biểu đa dạng có thể tạo ra một dòng nhạc phức tạp và đa chiều, trong khi một hóa biểu đơn giản có thể tạo ra một tác phẩm nhạc đơn giản và dễ nhớ. Hóa biểu đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cấu trúc và cảm xúc của một bản nhạc.
Có ba loại dấu nhạc: (Accidentals).
Câu 1: Dấu thăng được sử dụng để tăng cao độ của nốt nhạc lên một nửa cung và có hình dáng tương tự như kí hiệu ♯ trên điện thoại của bạn.
2/ Dấu giáng: có hình dạng ♭, được sử dụng để giảm độ cao của nốt nhạc xuống một nửa cung.
Với hình dáng ♮, dấu bình có thể sử dụng để hủy bỏ hiệu lực của dấu thăng và dấu giáng, đồng thời trả về cao độ bình thường của nốt nhạc.
Tăng cao độ nốt nhạc lên một bậc được biểu thị bằng dấu thăng kép (x) và giảm độ cao của nốt nhạc xuống một bậc được biểu thị bằng dấu giáng kép (♭♭) cũng được áp dụng.
Tùy vào vị trí của dấu hoá, nó có thể được phân loại thành 2 loại.
1. Dấu hoá theo khoá (dấu hoá cố định) đứng sau khoá nhạc, viết ở đầu khuông nhạc. Bộ dấu hoá ở vị trí này sẽ làm thay đổi cao độ của tất cả các nốt mang tên dấu hoá đó.
Tất cả những nốt Fa và Đô có trong bản nhạc phải được tăng độ cao lên một nửa cung. Ví dụ: Ký hiệu dấu thăng được đặt ở vị trí của nốt Fa và Đô.
Tất cả các nốt Si trong bản nhạc cần được giảm cao độ xuống một nửa cung vì dấu giáng xuất hiện ở vị trí của nốt Si. Ví dụ:
Các nốt Fa, Đô, Sol, Rê, La, Mi và Si được sắp xếp theo thứ tự tăng dần của vòng quãng 5.
Thứ tự giảm dần của các nốt nhạc là Fa – Đô – Sol – Rê – La – Mi – Si trong chuỗi âm giai.
Vì vậy, khi gặp 1 ký hiệu thăng (#), chúng ta sẽ đọc là Fa thăng.
Khi thêm hai dấu thăng vào, nó sẽ trở thành Fa# Đô#.
Ba dấu thăng tương đương với Fa thăng, Đô thăng và Sol thăng.
Khi gặp dấu giáng, âm Si sẽ được ghi là Si♭.
2 ký hiệu giảm âm là Si♭ và Mi♭.
3 âm giáng là Si♭, Mi♭ và La♭.
2. Dấu hoá bất thường chỉ thỉnh thoảng xuất hiện trong bản nhạc, được đặt ngay trước nốt nhạc và có ảnh hưởng trực tiếp lên nốt nhạc đó trở về sau trong phạm vi 1 ô nhịp mà thôi, sang ô nhịp sau dấu hoá bất thường sẽ không còn hiệu lực.
Chỉ cần quay trở lại từ nốt Si trong khoảng thời gian nhất định, ký hiệu giảm độ cao nằm tại vị trí của nốt Si là một điều bất thường trong bản nhạc và chỉ có tác dụng với các nốt Si.