Một trong những điều mà nhóm tác giả Phạm Quỳnh Phương, Lê Quang Bình, Nguyễn Minh Huyền đã nghiên cứu là việc xem xét sự thay đổi của chuẩn mực phụ nữ “tài giỏi việc nhà, chăm sóc gia đình” trong thời đại hiện nay.
Bằng cách thực hiện một nghiên cứu về giới trẻ Việt Nam đương đại qua các thảo luận trên báo chí và mạng xã hội, ba tác giả của đề tài “Trong nghiên cứu song ngữ Việt – Anh Khuôn mẫu giới và việc làm” đã hiểu thuật ngữ “khuôn mẫu giới” là những quy tắc tập thể không thành văn được chia sẻ trong xã hội và gắn liền với hệ thống giới. Theo tham chiếu từ hai nhà nghiên cứu Beniamino Cislaghi và Lori Heise, khuôn mẫu giới bao gồm bốn đặc điểm cốt yếu và được tạo ra và phục hồi thông qua những thiết lập xã hội. Nó có tính xã hội, bắt đầu từ gia đình và đồng thời có tính hệ thống. Thường phản ánh tương quan quyền lực mà phần không công bị tác động đến giới nữ, và vì hệ thống khuôn mẫu giới được tái sản xuất thông qua những tương tác liên tục giữa người với người ở cấp độ cá nhân rồi thiết lập, từ đó quay trở lại chi phối thế giới quan của các cá nhân, nó không tồn tại bẩm sinh nơi loài người, nhưng biến đổi qua tiến trình lịch sử của một xã hội cụ thể.
Ưu điểm của cuốn Khuôn mẫu giới và việc làm
Theo nghiên cứu, khả năng lựa chọn nghề nghiệp và cơ hội thăng tiến của mỗi giới trong mỗi thời đại không đồng nhất. Trong thời kỳ phong kiến, giới nữ bị đánh giá thấp hơn đàn ông do quan niệm Nho giáo của một số nhóm có học, dù họ vừa có trách nhiệm chăm sóc gia đình và vừa có khả năng kinh doanh để mang lại lợi ích cho cả gia đình.
Từ thời cách mạng dân tộc và xây dựng đất nước đi lên Chủ nghĩa Xã hội cho tới nay, phụ nữ đã có khả năng lựa chọn và thăng tiến trong nghề nghiệp rộng hơn, tuy nhiên, họ vẫn giữ trách nhiệm chăm sóc gia đình như trước đây. Điều này đã tạo ra mô hình phụ nữ “biết làm việc nhà và công việc nước”. Nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu dữ liệu từ hai hệ thống truyền thông bao gồm báo chí/trang tin điện tử và mạng xã hội trong hai năm từ tháng 8/2018 đến tháng 8/2020 để tìm hiểu xem liệu mô hình phụ nữ này có vẫn duy trì hay đã thay đổi đến mức nào.
Để cụ thể hơn, số lượng bài viết liên quan đến chín trang thông tin (Kênh 14, Zing, Tuổi trẻ, VNExpress, Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ TPHCM, Cafeland, Cafebiz, CafeF) được chọn có chủ đề chung là khuyến khích phụ nữ nỗ lực để tự quyết định nghề nghiệp và phát triển sự nghiệp. Các khẩu hiệu, tấm gương và phát biểu có trọng lượng của những người đang giữ các vị trí quan trọng cũng được đưa ra thông qua các trang thông tin được lựa chọn.
Trong khi đó, có nhiều bài thảo luận về bốn mạng xã hội được lựa chọn (VOZ.Vn, Webtretho.Com, Beatvn, NEU Confession). Tuy nhiên, thường xảy ra tranh cãi không có giải pháp do sự khác biệt trong cách hiểu giữa các giới và công việc. Có hai cách hiểu chính: về mặt sinh học và chức năng của từng giới trong xã hội. Về mặt sinh học, phụ nữ được cho là có tính cảm động cao hơn, nhưng giá trị này không được coi trọng trong công việc, khác với đàn ông. Về chức năng của từng giới, phụ nữ được định sẵn là người chăm sóc gia đình, làm việc trong lĩnh vực y tế, giáo dục hoặc chăm sóc khách hàng. Hai cách hiểu này là để biện minh cho giới nữ, nhưng cũng giới hạn khả năng của họ so với giới nam trong công việc. Biện minh này có thể do giới nam cảm thấy giới nữ tham gia nhiều vào thị trường lao động, làm giảm khả năng thăng tiến và thu nhập của họ, cho nên có thể đe dọa vai trò trụ cột gia đình của họ. Điều này đồng nghĩa với sự đe dọa khuôn mẫu giới nam là trụ cột gia đình, sự nghiệp triển vọng và kiếm tiền giỏi.
Nghiên cứu cho thấy rằng, hai hệ thống truyền thông dành cho giới trẻ đương đại đều thiếu điều quan trọng là chưa bàn đến hệ thống khuôn mẫu giới có tính lịch sử và xã hội. Vì vậy, ở phần cuối, nghiên cứu đưa ra những đề xuất, trong đó quan trọng nhất là cần tác động có tính hệ thống để thay đổi ý nghĩa của công việc đối với mỗi cá nhân ở mọi giới nếu muốn thay đổi khuôn mẫu giới và tương quan của nó với vấn đề việc làm. Thay vì khuôn định phụ nữ bằng các đặc điểm sinh lý hoặc chức năng xã hội cố định là chăm sóc người khác, thì mọi giới cần nhìn nhận sự chăm sóc ấy như một loại sức lao động đặc thù, có giá trị như mọi công việc được trả tiền lương. Điều này đã được đưa ra từ năm 1972 trong một chiến dịch làm chấn động các phong trào xã hội cánh tả, Wages for Housework (Tiền công cho Việc nhà), với người tiên phong là nhà nữ quyền nổi tiếng Silvia Federici (sinh năm 1942). Silvia Federici tóm tắt quan điểm của chiến dịch rằng: lao động chăm sóc không được trả lương của giới nữ là quá trình bóc lột phổ quát, có tính lịch sử và tính hệ thống. Nếu bỏ qua sự bóc lột đó, không thể thảo luận về tự do lựa chọn nghề nghiệp và khả năng thăng tiến của các giới. Chủ đề này rất hấp dẫn và khả thi để triển khai, thậm chí cần đặt làm trung tâm cho nghiên cứu này, nhưng đã không xảy ra. Tuy nhiên, với các kết quả đã đạt được cùng gợi ý quan trọng ở phần kết, tác phẩm có thể khơi mào cho những nghiên cứu khác tập trung vào loại sức lao động đặc thù này của giới nữ: lao động chăm sóc (care labor).