GÓP.
CHỮ KÝ.
Tình cảm giữa con người được gắn kết bởi hôn nhân. Khác biệt về giới tính, hoàn cảnh, tài chính, văn hóa không thể làm cản trở hạnh phúc của bất kỳ ai, miễn là hai tâm hồn hòa đồng và đồng ý gắn kết bằng lòng thành. Không có một mẫu hôn nhân nào phù hợp cho tất cả, không ai có quyền ép buộc một mẫu hôn nhân chung cho mọi người.
Bởi vì mỗi cuộc đời sống đều có thể tạo ra hình ảnh độc đáo cho riêng mình, chúng ta đã nghe rất nhiều về sự thành công của tình yêu và hôn nhân, đối mặt với sự khác biệt về tài chính, văn hóa và gia đình. Tuy nhiên, tại sao việc đối đầu với sự khác biệt về giới tính vẫn chưa được vượt qua? Trong thời đại hiện nay, hôn nhân cần phải có nhiều hình thức đa dạng hơn bao giờ hết để đáp ứng nhu cầu yêu thương và cam kết của con người.
Bắt đầu từ việc loại bỏ giới hạn về khuôn mẫu giới tính trong quan hệ hôn nhân hợp pháp, chúng ta hãy mở rộng quan điểm về quan hệ hôn nhân.
Đây có phải thứ “người ta” nói
Kết hôn giữa các cặp đồng tính là không tự nhiên và có thể dẫn đến giảm dân số.
Thông tin khoa học
Phân tích tự nhiên cho thấy việc hình thành liên kết tình cảm giữa các cá thể cùng giới là điều phổ biến trong tự nhiên, bao gồm cả con người. Theo một nghiên cứu trên tạp chí Nature (2019), hành vi tình dục cùng giới đã được ghi nhận ở hơn 1500 loài động vật khác nhau và được phân bố rộng rãi trên các nhánh động vật khác nhau. Các quốc gia trên thế giới đã ghi nhận các hình thức kết hôn cùng giới trong suốt lịch sử và không phải là một hiện tượng mới xuất hiện. Theo Lahey & Alderson (2004), việc kết đôi cùng giới đã được ghi nhận xuyên suốt lịch sử ở nhiều quốc gia và không phải là một hiện tượng mới. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chính thức loại bỏ đồng tính ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần trong Phân loại Bệnh Quốc tế (ICD) năm 1990 và công nhận đây là một hình thái tự nhiên của tính dục con người. Hiện nay, đã có 32 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới công nhận hôn nhân cùng giới, và chưa có nghiên cứu nào chứng minh việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới có ảnh hưởng tiêu cực đến dân số trong các quốc gia này. Ngoài ra, việc các cặp đôi khác giới gặp khó khăn trong việc sinh con hoặc không muốn sinh con không phải là một lý do phù hợp để không công nhận hôn nhân của các cặp đôi cùng giới.
Trẻ em lớn lên trong gia đình chỉ có cùng giới sẽ gặp nhiều bất lợi.
Thông tin khoa học
Nghiên cứu của Stacey & Biblarz vào năm 2001 cho thấy rằng trẻ em lớn lên trong gia đình đồng tính không bị ảnh hưởng tiêu cực từ cha mẹ so với trẻ em lớn lên trong gia đình khác giới. Tuy nhiên, môi trường kỳ thị và phân biệt đối xử với cha mẹ của những trẻ này có thể gây ra tác động tiêu cực, nhưng có thể giảm thiểu bằng việc tạo ra một môi trường thân thiện và cởi mở hơn với người đồng tính và gia đình họ. Việc chấp nhận hôn nhân đồng tính tại Việt Nam sẽ góp phần tạo ra một môi trường như vậy. Chúng ta cần hiểu và tôn trọng người đồng tính, không nên cản trở các cặp đôi này trong việc xây dựng gia đình. Nghiên cứu của iSEE vào năm 2022 cho thấy rằng các cha mẹ đồng tính cũng có những giá trị gia đình tương tự như cha mẹ khác và hành trình làm cha mẹ của họ gặp nhiều thách thức hơn do hôn nhân của họ không được chấp nhận và những cản trở từ xã hội hay gia đình. Tuy nhiên, họ vẫn muốn có con và sự chấp nhận của cộng đồng và pháp luật sẽ hỗ trợ cho họ. Xã hội Việt Nam đang mở rộng định nghĩa gia đình và các gia đình không truyền thống cũng xứng đáng nhận sự hỗ trợ và ủng hộ trong việc nuôi dạy con cái.
Làm thế nào để hôn nhân đồng giới theo xu hướng có thể kéo dài?
Thông tin khoa học
Đều đã cung cấp bằng chứng về những mối quan hệ tình cảm gắn kết lâu dài của những người thuộc cộng đồng LGBT, kết quả từ các nghiên cứu về mối quan hệ chung sống và gia đình của họ tại Việt Nam. Với nhóm tuổi trẻ, một nghiên cứu năm 2019 cho thấy gần 20% người trả lời đang ở trong mối quan hệ kéo dài từ 4 năm trở lên. Tỉ lệ này lên tới hơn 73% với nhóm trong độ tuổi từ 35 trở lên, cho thấy đa số những người thuộc cộng đồng LGBT ở độ tuổi trưởng thành đang ở trong những mối quan hệ tình cảm kéo dài. Các cuộc phỏng vấn cặp đôi thuộc cộng đồng LGBT cho thấy cuộc sống cùng nhau của họ đều cần có cam kết, trách nhiệm, sự chia sẻ và hy sinh để duy trì một gia đình bền vững. Đứa trẻ là sợi dây gắn kết quan trọng giữa các mối quan hệ và ngày càng củng cố tình cảm đối với những cặp đôi thuộc cộng đồng LGBT có con. Thực tế cho thấy, những cặp đôi thuộc cộng đồng LGBT tại Việt Nam đều rất tự nhiên gắn kết và xây dựng gia đình như những cặp đôi khác giới, cho thấy giá trị tốt đẹp của sự chung thủy, tính cam kết và hy sinh cho gia đình đều hiện diện ở những cặp đôi này, không phân biệt giới tính. Việc không chung thủy hay đổ vỡ trong hôn nhân có thể xảy ra với tất cả các cặp đôi, không phân biệt giới tính, tuy nhiên chỉ có hôn nhân của cùng giới là không được pháp luật công nhận. Dù gặp nhiều khó khăn, những cặp đôi thuộc cộng đồng LGBT vẫn đang kết đôi, xây dựng gia đình và tìm kiếm hạnh phúc trên khắp Việt Nam. Việc hợp pháp hóa hôn nhân của cùng giới sẽ là những hỗ trợ quan trọng cho họ trên hành trình này.
Không giống như quan niệm phổ biến, việc kết hôn giữa hai người cùng giới không có lợi ích gì đối với quốc gia. Thay vào đó, những người thuộc cộng đồng LGBT cần phải đóng góp nhiều hơn và không chỉ yêu cầu quyền lợi của mình.
Thông tin khoa học
Năm 2022, một báo cáo từ Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) cùng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) cho thấy việc cho phép hôn nhân đồng giới có thể giúp tăng GDP mỗi năm từ 1,65% đến 4,36% nhờ việc cải thiện năng suất lao động của người thuộc cộng đồng LGBT. Bằng việc công nhận người LGBT là thành viên bình đẳng của xã hội và tăng cường năng suất lao động của họ, sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam phát triển ”khu vực kinh tế LGBT”. Việc này sẽ giúp Việt Nam cải thiện kết quả cạnh tranh quốc gia, đặc biệt là khi nhiều quốc gia châu Á vẫn chưa chấp nhận hôn nhân đồng giới. Người ta cũng cho rằng việc cho phép hôn nhân đồng giới có thể ảnh hưởng tích cực đến tình hình dân số, bao gồm tăng số lượng trẻ em được sinh ra hoặc nhận nuôi, cải thiện chất lượng dân số và tốc độ gia tăng dân số tự nhiên. Theo số liệu từ Ngân hàng Thế giới (2021), các quốc gia cho phép hôn nhân đồng giới không ghi nhận sự suy giảm dân số. Ngoài ra, các ngành công nghiệp liên quan đến tổ chức đám cưới và xây dựng gia đình có thể tăng doanh thu từ 5,26% đến 12,36%. Tuy nhiên, sự kỳ thị xã hội và quy định pháp lý chưa đáp ứng đầy đủ quyền lợi của người LGBT vẫn khiến họ gặp nhiều bất lợi và chưa phát huy hết tiềm năng của mình. Cho phép hôn nhân đồng giới sẽ giúp giảm bất lợi này và tăng năng suất lao động của người LGBT, đóng góp vào sự tăng trưởng GDP của Việt Nam.