Trong thời đại số, website bán hàng trực tuyến là một công cụ quan trọng không thể thiếu cho các hoạt động kinh doanh, từ cung cấp dịch vụ đến mua bán hàng hóa. Việc thực hiện hoạt động bán hàng trực tuyến thông qua website cũng cần tuân thủ đúng các quy định pháp luật như các hoạt động kinh doanh thông thường. Vì vậy, bài viết dưới đây sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn về website bán hàng trực tuyến và các hoạt động bán hàng trực tuyến liên quan từ góc độ pháp lý.


Hình minh họa.
1. Định nghĩa về “Website thương mại điện tử” là gì? 2. Website thương mại điện tử là một nơi để mua bán các sản phẩm và dịch vụ qua mạng.
Theo quy định của pháp luật, trang thương mại điện tử được xác định là trang thông tin điện tử được thành lập để phục vụ một phần hoặc toàn bộ quá trình của hoạt động thương mại điện tử, từ việc trưng bày giới thiệu sản phẩm, dịch vụ đến việc ký kết hợp đồng, cung cấp dịch vụ, thanh toán và dịch vụ hậu mãi, theo điều 8 Điều 3 của Nghị định 52/2013/NĐ-CP.
Trang web thương mại điện tử chạy trên mạng internet và người dùng sẽ sử dụng nó để thực hiện các giao dịch. Nó bao gồm cả các trang web không có tính năng đặt hàng và mua hàng trực tuyến, khách hàng muốn mua hàng phải liên hệ qua điện thoại hoặc để lại thông tin. Đơn giản để hiểu.
Theo quy định tại Điều 25 Nghị định 52/2013/NĐ-CP, trang web thương mại điện tử được phân chia ra thành hai loại: trang web thương mại điện tử bán hàng và trang web cung cấp dịch vụ thương mại điện tử. Theo quy định này:
Trang web thương mại điện tử này được dùng để bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp, tổ chức hoặc cá nhân, họ có thể tự thiết lập trang web để quảng cáo hoạt động kinh doanh và bán hàng của mình.
Trang web cung cấp dịch vụ thương mại điện tử bao gồm các loại sau đây: + Là một trang web thương mại điện tử do doanh nghiệp, tổ chức thiết lập để cung cấp môi trường cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoạt động kinh doanh.
Nền tảng thương mại điện tử (điều 9, đoạn 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP).
Trang web đấu giá trực tuyến (điều 3 khoản 11 Nghị định 52/2013/NĐ-CP).
Trang web khuyến mãi trực tuyến (theo điều 3, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP).
Các trang web khác được quy định bởi Bộ Công Thương.
Liệu một doanh nghiệp có được phép đăng ký 02 trang web thương mại điện tử hay không?
Vì sao đơn đăng ký website bán hàng trực tuyến cho doanh nghiệp cá nhân bị từ chối?
Luật pháp quy định về hoạt động của các trang thương mại điện tử.
Luật Thương mại điện tử năm 2005.
Quy định 52/2013/NĐ-CP liên quan tới thương mại điện tử.
Thay đổi một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh trong phạm vi quản lý của Bộ Công thương được thực hiện thông qua việc sửa đổi nghị định 08/2018/NĐ-CP.
Thông tư 47/2014/TT-BCT đề ra các quy định liên quan đến quản lý trang web thương mại điện tử.
Một vài quy định trong Thông tư 47/2014/TT-BCT và Thông tư 59/2015/TT-BCT liên quan đến việc quản lý trang web thương mại điện tử và quản lý hoạt động thương mại điện tử thông qua ứng dụng trên thiết bị di động đã được thay đổi bởi Thông tư 21/2018/TT-BCT.
3. Nguyên tắc vận hành của thương mại điện tử.
Đầu tiên, quy tắc tự do, tự nguyện đồng ý trong thương mại điện tử.
Thiết lập quyền và nghĩa vụ của mỗi phía trong giao dịch bằng việc đồng ý là tự do của những đối tượng tham gia vào môi trường thương mại điện tử và không vi phạm các quy định pháp luật. Hợp đồng này sẽ được dùng để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình giao dịch.
Thứ hai, quy định việc giới hạn phạm vi hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Việc kinh doanh bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ và thúc đẩy thương mại trên trang web thương mại điện tử của các doanh nghiệp, tổ chức hoặc cá nhân sẽ được xem là hoạt động trên toàn quốc nếu không có giới hạn địa lý được đề cập rõ ràng.
Trong lĩnh vực thương mại điện tử, nguyên tắc xác định trách nhiệm về bảo vệ quyền lợi của khách hàng được đưa ra vào ngày thứ ba.
Bắt buộc phải tuân thủ các quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng là điều kiện đối với chủ sở hữu trang thương mại điện tử bán sản phẩm và người bán trên trang cung cấp dịch vụ thương mại điện tử.
Khách hàng trên trang web là những người tiêu dùng mua sắm trực tuyến và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp bởi nhà bán trên nền tảng thương mại điện tử.
Doanh nghiệp, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử và doanh nghiệp, tổ chức cung cấp cơ sở hạ tầng không được xem là bên thứ ba cung cấp thông tin theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong trường hợp người bán trực tiếp đăng thông tin về sản phẩm, dịch vụ của họ trên trang web thương mại điện tử.
Áp dụng nguyên tắc kinh doanh những mặt hàng, dịch vụ có giới hạn hoặc chỉ kinh doanh những mặt hàng, dịch vụ có điều kiện thông qua thương mại điện tử vào ngày thứ tư.
Để bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ trên thương mại điện tử, các đơn vị sử dụng cần tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến việc kinh doanh có điều kiện hoặc giới hạn.
4. Đặc tính và phân loại của các hoạt động thương mại điện tử.
Đặc tính của việc kinh doanh trực tuyến.
Việc thực hiện các giao dịch thương mại điện tử được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử với hình thức thích hợp. Khác với hoạt động thương mại truyền thống, các giao dịch trong thương mại điện tử thường được thực hiện qua mạng và không yêu cầu các bên gặp gỡ trực tiếp để đàm phán, tiến hành giao dịch và ký kết hợp đồng trên giấy tờ.
Thực hiện kinh doanh trực tuyến có thể được thực hiện ở bất kỳ địa điểm và thời điểm nào, không phụ thuộc vào địa lý hay thời gian. Các bên có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh trực tuyến tại bất kỳ địa điểm nào và bất cứ khi nào.
Các đối tượng tham gia vào hoạt động thương mại điện tử không chỉ bao gồm người tiêu dùng và người bán hàng như trong thương mại truyền thống, mà cụ thể là các đối tượng như chủ sở hữu của trang web thương mại điện tử, nhà buôn, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, người bán hàng, khách hàng, nhà buôn và tổ chức cung cấp hạ tầng… (Theo quy định tại Điều 24 của Nghị định 52/2013/NĐ-CP về các đối tượng tham gia).
Trong một số trường hợp, việc thực hiện các giao dịch thương mại điện tử yêu cầu nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức, đơn vị hoặc doanh nghiệp được ủy quyền để đảm bảo tính an toàn và bảo mật. Để đạt được mục tiêu này, các giao dịch thương mại điện tử cần được xác minh bởi các chuyên gia có năng lực và thẩm quyền để đảm bảo rằng thông tin được cung cấp là đáng tin cậy và an toàn cho mọi bên tham gia.
Việc thực hiện các giao dịch thương mại điện tử không bị ràng buộc bởi thời gian nhờ sử dụng các phương tiện điện tử tiên tiến và công nghệ truyền dẫn không dây. Điều này là một ưu thế quan trọng của hoạt động thương mại điện tử, giúp tự động hóa một số bước trong quá trình giao dịch (như mua sắm trực tuyến qua website) và xóa bỏ khoảng thời gian khác nhau giữa các quốc gia. Do đó, bất kỳ ai và bất kỳ doanh nghiệp nào đều có thể thực hiện các giao dịch thương mại điện tử một cách linh hoạt bất kể nơi đâu và lúc nào cũng được.
Phân loại các hoạt động thương mại điện tử.
Dưới đây là Hai nhóm chính về kinh doanh điện tử, tuy nhiên luật không quy định rõ ràng về việc phân loại chúng. Sự phân biệt dựa trên tính chất của các tổ chức kinh doanh điện tử.
Hình thức kinh doanh B2B, B2C, C2B… – Các công việc của công ty thương mại điện tử trực tiếp và cá nhân: qua thư điện tử, các phương tiện điện tử khác.
Sử dụng trang web thương mại điện tử, các hoạt động của tổ chức hoạt động thương mại điện tử chuyên nghiệp gồm các mô hình doanh nghiệp B2C, C2B, C2C, B2B.
Có thể phân loại các hoạt động thương mại điện tử dựa trên hình thức của các trang web thương mại điện tử thành các trường hợp sau đây: theo cách mà.
(1) Các hoạt động thương mại điện tử được tiến hành trên trang web bán hàng điện tử.
(2) Các hoạt động thương mại trực tuyến được tiến hành trên các nền tảng thương mại điện tử.
(3) Các giao dịch thương mại điện tử được thực hiện trên trang web đấu giá trực tuyến.
(4) Thương mại điện tử được thực hiện trên trang web khuyến mãi trực tuyến.
Trong việc xác định nghĩa vụ của các đối tượng tham gia vào các hoạt động thương mại điện tử, việc phân loại các hoạt động này rất quan trọng. Các loại hoạt động này có những đặc điểm riêng về đối tượng tham gia và loại hoạt động được thực hiện.
Người đứng sau việc tạo website bán hàng cũng chính là người thực hiện hoạt động mua bán trên đó. Tuy nhiên, đối với sàn giao dịch thương mại điện tử, người thiết lập sàn không phải là người trực tiếp tham gia và thực hiện giao dịch. Hoạt động khuyến mại trực tuyến trên website được thực hiện bằng cách khuyến mại sản phẩm, dịch vụ cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có nhu cầu dựa trên hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa các bên. Đối với hoạt động đấu giá trực tuyến trên website, hoạt động được thực hiện là hoạt động đấu giá.
5. Điều kiện vận hành thương mại điện tử.
Điều khoản về hoạt động của các trang web thương mại điện tử, như được đề cập trong bài viết, đề cập đến các yêu cầu cần thiết để thiết lập các trang web cho các chủ sở hữu. Tuy nhiên, điều khoản này có phạm vi khá rộng.
Đối với trang web thương mại điện tử bán sản phẩm.
Nếu đáp ứng các điều kiện phù hợp, các doanh gia, tổ chức và cá nhân sẽ được cho phép thiết lập trang web thương mại điện tử bán sản phẩm theo quy định tại Điều 52 của Nghị định 52/2013/NĐ-CP và khoản 1 của Điều 10 và Điều 11 của Nghị định 08/2018/NĐ-CP.
Đầu tiên, đó là các doanh nhân, tổ chức hoặc cá nhân đã được cấp mã số thuế cá nhân.
Ngày thứ hai đã thông báo với Bộ Công Thương về việc thành lập trang web thương mại điện tử để bán hàng theo quy định.
Đối với trang web cung cấp dịch vụ thương mại điện tử.
Sau khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định, thương nhân và tổ chức được phép thiết lập trang web cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, bao gồm sàn giao dịch thương mại điện tử, trang web đấu giá trực tuyến và trang web khuyến mại trực tuyến, theo quy định tại Điều 54 Nghị định 52/2013/NĐ-CP và khoản 2 Điều 10, Điều 11 Nghị định 08/2018/NĐ-CP.
Đầu tiên, như một doanh nhân, tổ chức được thành lập theo quy định pháp luật.
Thứ hai, có kế hoạch cung cấp các dịch vụ với các thông tin sau đây được đưa ra:
Bao gồm việc cung cấp dịch vụ, khuyến mãi và quảng bá dịch vụ trực tuyến, cùng với cách thức tổ chức hoạt động trong và ngoài môi trường trực tuyến.
Phân biệt vai trò và trách nhiệm của người sử dụng dịch vụ và nhà cung cấp thương mại điện tử.
Được Bộ Công Thương xác nhận đăng ký theo quy định, vào ngày thứ ba đã đăng ký thành lập trang web cung cấp các dịch vụ thương mại điện tử.
Đăng ký với Cục Công Thương là bắt buộc đối với các doanh nhân, tổ chức thiết lập trang web thương mại điện tử vừa là trang web bán hàng vừa là trang web cung cấp dịch vụ thương mại điện tử và phải thông báo trước.
6. Chú ý khi thực hiện các hoạt động kinh doanh trực tuyến.
Điều vô cùng quan trọng đối với chủ sở hữu là xác định xem trang web có phải là loại thương mại điện tử nào. Bởi vì mỗi loại trang web sẽ phải tuân thủ các yêu cầu nhất định để hoạt động đúng pháp luật. Ví dụ, nếu chủ sở hữu trang web bán hàng thương mại điện tử thì phải thông báo với Bộ Công thương, trong khi các thương nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử phải đăng ký với nhiều điều kiện kèm theo.
Cần chú ý rằng, người bán không được sử dụng trang web thương mại điện tử để bán các mặt hàng bị giới hạn kinh doanh. Ngoài ra, phải tuân thủ nghiêm ngặt các điều khoản và quy định.
Vũ khí săn bắn và đạn, dụng cụ thể thao và phụ kiện hỗ trợ;
Các loại thuốc lá như điếu, xì gà và các sản phẩm thuốc lá khác;
Đồ uống có cồn các thể loại;
Đã được chế biến, các sinh vật tự nhiên đáng quý bao gồm cả động thực vật và động vật cũng như các phần của chúng.
Các sản phẩm bị giới hạn trong kinh doanh theo quy định của luật pháp.
Thông tin về số, ngày cấp và địa điểm cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho các hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục kinh doanh có điều kiện phải được công bố trên trang web của doanh nghiệp để tiến hành bán các hàng hóa, dịch vụ (Theo quy định tại Điều 3 của Thông tư 47/2014/TT-BCT).
Các cơ quan thuế áp dụng cho các sản phẩm được mua trên các trang web nước ngoài và được chuyển đến Việt Nam thông qua các dịch vụ chuyển phát nhanh.
Mục tiêu của kế hoạch và đầu tư là triển khai chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp quan tâm đến việc xuất khẩu thông qua thương mại điện tử.
Tổng cục Thuế khuyến nghị không nên sử dụng trang web thương mại điện tử để khai báo và thanh toán thuế thay cho chủ doanh nghiệp.
Cảnh báo về các vi phạm thuế phổ biến trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Trường Đại học Bách Khoa Luật.
Nguồn bài viết: https://bachkhoaluat.Vn/cam-nang/9423/website-bán-hàng-trực-tuyến-là-gì-các-quy định liên quan đến hoạt động bán hàng trực tuyến.